Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

BS. Nguyễn Thùy Ngoan

Tư vấn chuyên môn - Tham vấn y khoa

Bác sĩ chuyên khoa: Nguyễn Thùy Ngoan

Lây truyền từ mẹ sang con là một trong ba đường lây truyền của HIV. Nếu được can thiệp, chăm sóc và điều trị dự phòng thích hợp thì mỗi năm tại Việt Nam sẽ có hàng ngàn trẻ sẽ được cứu thoát khỏi HIV.

Các thời điểm lây truyền vi-rút HIV cho con

Người mẹ nhiễm HIV có thể lây truyền vi-rút HIV sang con trong thời kỳ mang thai, khi sinh và khi cho con bú.

Trong thời kỳ mang thai: vi-rút HIV từ máu của mẹ qua nhau thai để vào cơ thể thai nhi. Sự lây truyền HIV trong thời kỳ mang thai có thể xảy ra sớm ngay khi thai nhi mới được 8 tuần tuổi và có thể kéo dài trong suốt thai kỳ.

Tuy nhiên, người ta nhận thấy tỷ lệ lây truyền HIV qua nhau thai tương đối cao vào thời kỳ tuổi thai được trên 18 tuần. Khoảng 20-30% số trẻ em bị lây truyền HIV từ mẹ được cho là lây truyền qua bánh nhau.

Trong khi sinh: Sự lây truyền HIV từ mẹ sang con có thể xảy ra muộn quanh thời kỳ chuyển dạ. Nguyên nhân khi đứa trẻ “đi qua” đường sinh dục của mẹ để ra ngoài đã tiếp xúc trực tiếp với dịch âm đạo (nuốt nước ối, vi-rút trong máu và dịch âm đạo của mẹ có chứa HIV).

Do sự trao đổi máu mẹ – thai nhi khi chuyển dạ (ở giai đoạn này các cơn co tử cung của mẹ có thể “bơm mạnh” máu mẹ chứa HIV vào tuần hoàn của thai nhi). Khoảng 50-60% trẻ em bị lây truyền HIV trong giai đoạn này. Đồng thời, nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con trong khi sinh sẽ tăng lên trong trường hợp đẻ khó, chuyển dạ kéo dài, phần mềm của người mẹ bị dập nát, thai bị xây xước, sang chấn …

Khi cho con bú: Cho dù số lượng vi-rút HIV trong sữa mẹ không cao, nhưng vẫn gây nguy cơ lây nhiễm cho trẻ khi trẻ bú sữa mẹ nhiễm HIV. Khi trẻ bú mẹ, HIV từ sữa mẹ có thể xâm nhập qua niêm mạc miệng, lưỡi, lợi của đứa trẻ và lây nhiễm cho trẻ, nhất là trong trường hợp trẻ có các viêm nhiễm trong khoang miệng.

Hoặc trong trường hợp vú mẹ có viêm nhiễm, vết nứt hay khi trẻ mọc răng cắn gây chảy máu thì HIV có thể theo máu vào miệng trẻ, xâm nhập qua niêm mạc trong khoang miệng và gây nhiễm HIV cho trẻ. Khoảng 20-30% số trẻ em bị nhiễm HIV từ mẹ được cho là bị lây qua bú sữa mẹ. Tỷ lệ lây nhiễm tùy thuộc vào thời gian và cách nuôi con bằng sữa mẹ.

Tầm quan trọng của dự phòng lây truyền HIV từ mẹ qua con

Một bà mẹ bị nhiễm HIV mang thai có thể làm lây truyền HIV từ mẹ sang con. Nếu 100 trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm HIV không được chăm sóc điều trị thích hợp, không được dùng thuốc kháng HIV để phòng lây truyền từ mẹ sang con thì trung bình có 30-35 trẻ sinh ra bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Trong khi đó nếu được phát hiện sớm và điều trị thích hợp, tỷ lệ này giảm xuống còn dưới 5% (100 trẻ sinh ra có thể chỉ có 3-5 trẻ nhiễm HIV từ mẹ hoặc thậm chí còn ít hơn nữa).

Tầm quan trọng của việc thực hiện xét nghiệm HIV sớm

Ở nước ta ước tính trung bình mỗi năm có từ 1,5-2 triệu phụ nữ mang thai. Với tỷ lệ nhiễm HIV khoảng 0,25-0,3% trong nhóm này thì mỗi năm có khoảng từ 4.000-6.000 bà mẹ mang thai nhiễm HIV.

Nếu không được can thiệp mỗi năm sẽ có 1.500-3.000 trẻ bị nhiễm HIV ra đời. Nếu được chăm sóc và điều trị dự phòng thích hợp, mỗi năm chỉ còn khoảng 150-200 trẻ bị nhiễm HIV từ mẹ. Hàng ngàn trẻ sẽ được cứu thoát khỏi HIV.

Do đó, xét nghiệm phát hiện sớm tình trạng nhiễm HIV ở phụ nữ mang thai để áp dụng các biện pháp can thiệp dự phòng rất quan trọng, nhằm:

·     Giúp phụ nữ mang thai nhiễm HIV tự quyết định các vấn đề về sinh con, về thực hiện các biện pháp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con;

·     Giúp phụ mang thai chưa nhiễm HIV biết về HIV, về xét nghiệm HIV, về dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, …

·     Giúp phụ nữ mang thai thực hiện các hành vi an toàn để làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho mình và cho con, …

·     Hỗ trợ về mặt tình cảm, tâm lý và giúp cho phụ nữ mang thai nhiễm HIV:

Những biện pháp can thiệp giúp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

Với những phụ nữ mới được phát hiện nhiễm HIV khi mang thai, việc nhận kết quả HIV dương tính ít nhiều cũng gây ảnh hưởng đến tâm lý. Do đó họ rất cần được chăm sóc về thể chất, tinh thần cũng như tiếp cận những biện pháp can thiệp giúp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

Trong khi mang thai: Thực hiện tư vấn đầy đủ trước và sau xét nghiệm HIV. Tư vấn về dinh dưỡng khi mang thai và nuôi dưỡng trẻ sau sinh; về nguy cơ và bất lợi có thể xảy ra khi mang thai, sinh đẻ, kể cả việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ sau này

Tư vấn hỗ trợ tinh thần, thực hiện các hành vi an toàn tránh để lây  nhiễm HIV cho bản thân và  người xung quanh. Đồng thời tập huấn sẵn sàng điều trị bằng ARV và thực hành tuân thủ thuốc ARV.

Trong khi sinh: Đảm bảo các nguyên tắc vô khuẩn trong sản khoa. Hạn chế các thủ thuật: bấm ối, mổ lấy thai, đặt điện cực, rạch màng ối sớm. Tắm cho trẻ ngay sau sinh.

Sau khi sinh: Thực hiện cấp phát đủ liều thuốc ARV cho mẹ nếu mẹ và trẻ được xuất viện sớm. Chuyển tiếp hồ sơ đến cơ sở chăm sóc và điều trị HIV dành cho người lớn để người mẹ được chăm sóc và điều trị lâu dài.

Chăm sóc và tiếp tục điều trị dự phòng cho trẻ

Cấp phát đủ liều thuốc ARV cho trẻ và hướng dẫn mẹ hoặc người chăm sóc thực hành tuân thủ điều trị ARV cho trẻ. Trong trường hợp cần thiết, hẹn tái khám để cấp thuốc và tư vấn thêm.

Giới thiệu trẻ đến với các cơ sở chăm sóc và điều trị HIV dành cho trẻ em để được chăm sóc và theo dõi lâu dài, khi trẻ được 4-6 tuần tuổi. Nếu trẻ mồ côi thì động viên gia đình tiếp tục chăm sóc trẻ hoặc giới thiệu trẻ đến các trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi.

Về tiêm chủng, sau khi sinh trẻ cần được tiêm vắc-xin theo đúng lịch tiêm chủng như trẻ bình thường (ví dụ vắc-xin phòng bệnh viêm gan B, vắc-xin phòng bệnh lao).

Nuôi dưỡng trẻ sau khi sinh

Nuôi con bằng sữa mẹ làm tăng tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tỷ lệ này cao nhất ở những người vừa cho con bú sữa mẹ vừa cho con ăn thức ăn thay thế, sau đó mới đến những người nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn.

Phụ nữ nhiễm HIV chỉ nên chọn một cách nuôi con, hoặc là bú sữa mẹ hoặc là bú sữa ngoài hoàn toàn. Tuyệt đối không nên cho trẻ vừa bú mẹ vừa bú sữa ngoài thay thế, vì sẽ làm tăng cao nguy cơ nhiễm HIV cho trẻ, thậm chí cao hơn là nếu trẻ chỉ bú mẹ.

Nếu muốn nuôi con bằng sữa mẹ thì người mẹ nhiễm HIV phải được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút ARV và đảm bảo tuân thủ điều trị tốt để đạt tải lượng vi rút HIV dưới ngưỡng ức chế. Trong trường hợp không thể đảm bảo điều trị thì người mẹ nhiễm HIV nên nuôi con bằng sữa thay thế.

Nếu các bà mẹ không có sự lựa chọn nào khác mà quyết định cho con bú sữa mẹ thì cần phải vệ sinh đầu vú sạch sẽ, thường xuyên và cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ mà không dùng sữa thay thế hay bất cứ thức ăn, nước uống nào khác. Đặc biệt, cần ngừng cho trẻ bú càng sớm càng tốt, muộn nhất là khi trẻ 6 tháng tuổi. Khi ngừng cho trẻ bú sữa mẹ cần chuyển ngay sang sử dụng thức ăn thay thế như sữa bột, bột, cháo. Bên cạnh đó, trẻ cần được đưa đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được theo dõi và xét nghiệm nhằm xác định sớm tình trạng nhiễm HIV, điều trị dự phòng các nhiễm trùng cơ hội.

Nguồn: BS. CKII. Lê Thị Bích Vân – Trung tâm Y tế quận Gò Vấp

Rate this post

Tin liên quan